Thứ Ba, 13 tháng 7, 2021

TÌM THẦY...CHỌN THẦY

 



       A di đà phật! Các cụ thường dạy "không thầy đố mày làm nên" trong tâm linh việc tìm thầy lại là đòi hỏi cấp thiết và tiên quyết trên con đường tu thân học đạo của lính ghế nhà ngài.

       Mỗi người có quan điểm tìm thầy học đạo khác nhau, có người tùy duyên gặp thầy nào hợp tình,hợp lý là thầy trò nhận nhau,có bạn thấy thầy hot quá

Hầu đẹp,múa dẻo,đông con nhang,sang đệ tử mà đem lòng tôn kính mà nhận là sư phụ...


  Lại có bạn vừa bước vào cửa đạo, nghe sự hứa hẹn làm lễ sẽ đắc tài sai lộc mà sinh tâm mong cầu nhận lầm ma qủy làm thầy.
     Vậy việc chọn thầy phải chăng khó thế!!!
     Trước tiên add đề cập đến vai trò của người thầy trong đạo Mẫu của Chúng ta.
     Trong đạo Mẫu chúng ta thường nghe câu « kính thánh - trọng thâỳ» hay "trên theo phật thánh dưới theo đồng thầy" điều này chứng tỏ người thầy đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng của đình thần tam tứ phủ.
      Thầy là người tái sinh là người mẹ thứ hai trong cuộc sống của chúng ta thông qua việc khai đàn mở phủ xuất thủ trình đồng... 

Sau cái lễ tái sinh trong thế giới tâm linh ấy chúng ta như những cô cậu học sinh cắp sách tới trường, bắt đầu làm quen với ngôi nhà của Mẫu thông qua sự dìu dắt của thầy, từ các quy định, lề lối phép tắc, sự kiêng khem, đến lời ăn tiếng nói, lời kêu tiếng khấn phải chuẩn chỉ, nghiêm túc theo đúng khuôn khổ mà thầy đặt ra... Thầy cũng chính là người kêu thấu, tấu nổi, dẫn trình đồng tân lính mới đến các cung các cửa, đến đền to phủ lớn mà kêu thay, lạy đỡ trình khăn trình áo xin bề trên cởi trói cho lính ghế nhà ngài


Thầy cũng là người dìu dắt những canh đàn khóa lễ đầu tiên của đồng tân lính mới như là một cách truyền pháp để thực hiện nhiệm vụ cứu khổ, độ mê...

      Quan trọng hơn cả cha mẹ ruột cho chúng ta thể xác, thầy là người cho chúng ta đạo đức ở đời. Là chỗ dựa cho chúng ta khi khó khăn, là động lực cho chúng ta khi được cha mẹ đề tâm khai sáng...

     Việc chúng ta cư xử có chuẩn mực, có đạo đức, có lề lối hay không chính là sự phản chiếu thái độ của Chúng ta với thầy, và khả năng, trình độ và cái tâm cái đức của người thầy... Ví thử như chúng ta thấy những cảnh hầu đồng nhảy nhót như ma nhập, những khóa lễ không thể diễn tả thành lời thì than ôi phù hợp lắm với câu:

Trứng rồng lại nở ra rồng

Liu điu lại nở ra dòng liu điu

      Vậy vị trí của người thầy giữ vai trò tối quan trọng trong hệ thống đình thần tam tứ phủ.

     Nhưng chúng ta phải tìm thầy như thế nào? Câu hỏi này chắc hẳn có hàng vạn bạn đang muốn tìm câu trả lời.  Vì thường có câu "Sảy một ly, đi một dặm".  Các bạn chọn sai thầy, giống như các bạn chữa bệnh mà mua không đúng thuốc... Bệnh vẫn ngày càng nặng, mà tiền vẫn mất...

 

CHỌN THẦY

 

 

       Điều đầu tiên các bạn tìm thầy thì luôn luôn hiểu rằng, tìm thầy là các bạn muốn nương nhờ cái tâm cái đức của thầy để yên căn, yên số, yên sổ thiên đình, vậy những người có tâm là ai,có đức là ai? Nếu những người có tâm thì không bao giờ làm việc thánh mà coi đó là một nghề, không tư lợi cá nhân, không bòn rút của con nhang đệ tử, làm mọi việc phải đặt cái uy, cái danh của nhà thánh mà hành đạo đúng lề lối,phép tắc, biết yêu thương đồng loại, cứu khổ, độ mê, đau nỗi đau của Chúng sinh mà hành thiện cứu người...  

 


Nếu thầy là người có đức thì nhìn thầy đối xử với cha mẹ, với tổ tiên của thầy, nhìn thấy cuộc sống của thầy xem bề trên ban cho người có đức có giống những gì thầy đang có...

     Thầy là người am hiểu về đạo, lề lối, phép tắc được thể hiện qua cách thầy giao tiếp, nội dung thầy giải thích, cách thầy bày biện, thờ cúng đến việc thầy thực hiện những canh đàn khóa lễ mà chúng ta được chứng kiến, được tận mục sở thị

       Thầy là người được cha cắt mẹ cử ắt hẳn có điện có phủ, biết soi căn nối quả, và sinh con mát tay... (nhìn đồng anh lính chị)

Thầy là nam hay nữ là tùy quan điểm của từng người, cũng như việc hợp tuổi, hợp mạng cũng là quan điểm cá nhân và hợp với quan điểm trần gian theo quy luật ngũ hành chứ không phải quy định của nhà Thánh vì quyền phép nhà ngài biến hóa vô cùng, có thể cải hung thành cát, cải họa vi tường....

      Vậy chúng ta bắt đầu tìm các bạn nhỉ?

      Nhiều bạn cứ tìm, cứ tìm nhưng duyên không tới, gặp không ưa thì biết tìm ở đâu?  Dạ thưa các cụ có câu "Thứ nhất là tu tại gia - thứ hai tu chợ - thứ ba tu chùa".

      Chúng ta thực hành luôn việc tu tại gia thông qua việc hiếu thuận cha mẹ, hiếu kính tổ tiên, năng kêu cầu lễ bái gia tiên, bà cô tổ dẫn đường chỉ lối gặp được ông có đức, gặp được bà có nhân để dẫn đường con tới cửa cha cửa mẹ.

     Thứ hai tu chợ: nơi chốn xô bồ ấy, đời động mà tâm không động, tu tâm, tu khẩu, hành thiện tránh ác, làm nhiều việc thiện đẩy lùi nghiệp chướng để sớm được hưởng phúc đức ắt gặp thầy tốt.

      Thứ ba tu chùa: đến đền đến phủ, mang miệng đến tâu, mang đầu đến lạy phải kêu cầu cha trên thiên mẹ dưới hạ giới đề tâm khai sáng, cắt cử để con gặp được thầy có tâm có đức để sớm ra hầu cửa cha cửa mẹ...

 


   Các bạn cứ từng bước một. Ắt việc sẽ thành.

      Có một số bạn vừa ra mở phủ, nhưng vì tâm chưa định và sự thị phi của xã hội thông qua môi trường internet dẫn đến mất niềm tin vào thầy, điều này cực kỳ nguy hiểm.

     Chúng ta đều biết nhân vô thập toàn, chúng ta có thể nhầm nhưng nhà ngài không nhầm... Việc chọn sai, u mê lầm lỗi âu cũng là nghiệp quả của Chúng ta, chỉ có sự nhất tâm kêu cầu mới hóa giải được nghiệp chướng này nhưng chúng ta không thể tái sinh lần nữa, cũng như cha mẹ chúng ta sinh ra chúng ta, giờ chúng ta lại chui vào để sinh lại là điều không thể.... Hãy nhất tâm kêu bề trên xoay chuyển, sau này gặp được thầy hợp duyên (sau khi tạ ba năm) chỉ cần nhờ thầy phủ lại khăn cũng đã đủ chuyển họa thành phúc....


   Điều quan trọng nhất của tất cả các bạn đang tìm hiểu về đạo là phải nhìn nhận đúng về đạo. Không phải các bạn cứ ra mở phủ là có quyền phép trong tay, có thể xem bói, tìm mộ, kiều vong, bắt ma.... Cũng không phải ra hầu cha mẹ xong là các bạn hanh thông mọi việc, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc.... Mà nên nhớ, hầu cha mẹ vừa là phúc, vừa là nghiệp.... Nếu là người thường thì hãy cứ là người thường, đừng vì đua đòi mà trình đồng mở phủ, cũng đừng hoang tưởng hoặc bị ám ảnh bởi một số bộ phim viễn tưởng mà muốn làm con nhà thánh, đừng vì bói toán mà u mê lầm lối trôi dạt vaò cõi vô minh. Những bạn căn quả thì thật bình tĩnh, cần tĩnh tâm xâu chuỗi các diễn biến, đừng để bị mê hoặc bởi lời hứa của những kẻ buôn thần, bán thánh cũng đừng để tâm mong cầu che lấp ánh sáng tâm linh.... Thật tĩnh tâm, để phân tích cái gì là quy luật của tự nhiên, cái gì là hiện tượng xưa nay không giải thích được... Từ đó nhất tâm kêu cầu, tu tâm, tạo phước... Ắt các bạn sẽ thành công.

 

          Nam Mô Thiên Tiên Thánh Mẫu Đại Từ Tôn!!!

#pagetuphuthanhmau

#tuphuthanhmauvn0966662332


 

CÓ NÊN HẦU ĐỒNG

 

CÓ NÊN HẦU ĐỒNG

Hiện nay hơi một tí trục trặc khó khăn trong cuộc sống là mọi người lại mong ra trình đồng mở phủ.Nhiều đồng thày thiếu hiểu biết chỉ mong "đông con nhang nhiều đệ tử" đã vô tình lôi kéo nhiều con nhang mở phủ hầu thánh.Ấy là chưa kể vì tiền tài làm mờ mắt mà bất chấp đạo pháp, lôi kéo con nhang. Nhiều người thành tâm ra hầu thánh nhưng vì không hiểu đạo chưa đủ căn duyên, khiến càng hầu càng khổ thậm chí khuynh gia bại sản vợ chồng con cái ly tán.Bởi lễ thì dễ giữ lễ thì khó

hầy giỏi thì hay ở ẩn thầy có nghề thì đứng khoanh tay nhìn xuống. Nên các tân đồng cũng như người có căn số quan tâm đến đạo mẫu thì cứ " lênh đênh ở cửa thần phù".
Ngày nào mình cũng gặp những câu hỏi nội dung đại loại như thế này: Em hay mơ lắm người em khác lắm cuộc sống và mọi việc của em hay lận đận lắm ... Hơn nữa có những bạn nói rằng thỉnh thoảng nhìn thấy người âm hay bị người âm dựa bóng hay ''em đi xem bói nói em căn cao quả nặng '' và kết thúc là mọi người đều ngấp nghé ''trình đồng mở phủ".
Vì vậy tôi viết bài này mong muốn trả lời chung cho tất cả các bạn quan tâm đến vấn đề này.Mình chỉ mong muốn mọi người có hướng đi đúng nhất vì việc thánh không cho phép được sai sót. Mình sẽ bàn về nội dung trình đồng mở phủ sau bây giờ trước hết nói về căn số:
Mỗi người sinh ra đều có bản mệnh riêng và được cai quản bởi các bậc tiên thánh.Bản mệnh tốt hay xấu là do nghiệp lực và phúc phận từng người cũng như căn số là do nghiệp báo từng người. Mỗi người một nghiệp một bản mệnh một căn số khác nhau mức độ nặng nhẹ cũng khác nhau nên cách xử lý cũng khác nhau.
Các bạn nên nhớ rằng không phải cứ căn quả là phải ra trình đồng mở phủ.Có người căn quả chỉ cần trình trầu cũng nhẹ có người chỉ cần tôn lô nhang bản mệnh.Thậm chí có người chỉ cần mang tâm năng đi bái yết đền phủ cũng nhẹ.Chỉ có người nghiệp duyên sâu dày không thể trốn được mới phải ra mở phủ.
Mình xin viết một số vấn đề rõ hơn về căn số:
- Có người lận đận long đong do số phận phúc phần chưa lớn. "Sông có khúc người có lúc"cứ lạc quan cố gắng khắc phục vượt qua chưa nên kết luận căn quả.
- Có người hay mơ mộng hoặc thích nghe hát văn xem hầu cũng thấy rạo rực.Đó cũng chỉ là có duyên với nhà thánh nên năng đi chiêm bái cửa thánh kêu cầu chưa kết luận căn quả.
- Có người thỉnh thoảng hay nhìn thấy người âm đi gọi hồn hay bị nhập thỉnh thoảng cũng bị người âm dựa bóng... Đó cũng có thể là mình sát âm nên bị vậy chưa nên kết luận căn quả.
- Có người
bị âm nhập nặng hơn là hành điên thì cũng phải xem xét lại xem hành căn hay bị ma tà xâm nhiễm.
Người trình đồng mở phủ thực sự phải có cơ duyên sâu dày với nhà thánh, phải có bóng thánh phải có sự linh ứng.Đôi khi ra mở phủ phải có sự báo trước của nhà ngài có cơ duyên tới ngày tháng phải ra như một sự sắp đặt trước mà không có gì cản được. Đó là sự vô cùng liêng thiêng của nhà ngài.
Ai cũng nghĩ rằng mình long đong trắc trở quá khổ sở quá ra mở phủ cho đỡ khổ.Nhưng các bạn đâu biết rằng đó là giải pháp trước mắt thôi vì người ra mở phủ là tôi con nhà thánh phải có nghĩa vụ phụng sự cả đời.Một năm bắc ghế hầu hai lần tuần tiết tiệc lễ cũng phải lễ cha lễ mẹ.Ấy là chưa kể đến việc phải tu tâm, dưỡng tính; không tự do bản năng được; không nói tục, chửi bậy; ăn uống vệ sinh kiêng cữ tỏi, hành sống,, thịt chó, cá chép, lòng mề, ...đó mới là nhất tâm theo đạo. Ra mở phủ phải xác định là ra trả nghiệp để hành đạo chứ không hành nghề . Dẫu biết ràng mưu cầu hạnh phúc danh vọng là mong ước chính đáng của con người, nhưng hãy đặt nó xuống hàng thứ hai.
Sau khi mở phủ đúng thì tốt đẹp chứ không đúng thì nói thật ''cái bát mẻ chẳng có mà ăn". Sai việc âm khó sửa lắm, nên các bạn suy nghĩ kỹ đi. Cứ lo sống cho tốt đời trước đã rồi đẹp đạo sau.
Cũng có thể bạn có cơ duyên với nhà thánh nhưng những yếu tố trên chưa đủ chín để ra mở phủ. Mình có lời khuyên cho các bạn thực sự có căn số phải ra mở phủ hãy vững tâm trau dồi kiến thức về đạo, luật đạo trước đã rồi tìm thầy mở phủ. Có bạn cái áo công đồng cũng không hiểu như thế nào, cái khăn xếp còn hỏi mình mua mầu gì, bó tay toàn tập.
Nếu mình không hiểu biết thầy có làm sai mình cũng không biết.
Điều quan trọng là sáng suốt tìm thầy đủ tâm đủ tài.
Sau khi mở phủ một lòng nhất tâm nên tin là đã được. Đừng có hỏi loạn lên là không biết đã được chưa. Cái gì thì cũng cần phải có thời gian, sau 100 ngày mọi việc dần tốt lên, chứ không tốt ngay ngày hôm sau được. Vì có sai thì cũng không thế sửa ngay được và đừng xoay khăn loạn lên. Suy nghĩ thật kỹ, luôn để tâm vững thì mọi sự an.
Đó là tất cả những điều mà mình muốn chia sẻ để mong rằng mọi người cùng tốt lên. Con nhà thánh kiên quyết phải có kiến thức tâm linh và sự hiểu biết nhất định.
Nhân đây xin nói với bạn nào là đồng nổi. Đồng nổi có thể làm việc bình thường, không cần mở phủ vì bạn không có nghiệp được giáng bóng trực tiếp.Mình không nói điều đó là sai đúng. Là đồng nổi không cần ra mở phủ vẫn ra làm việc soi bói bình thường nhưng chỉ là soi bói thôi còn sau này muốn trở thành đồng thầy ''nối quả'' (có nghĩa là cúng kiếng sang khăn dẫn trình đệ tử) thì bắt buộc phải có phủ nếu bạn an phận làm đồng soi thì ko cần mở phủ.
Người nào ghế nhà trần chỉ cần đội lệnh nhà trần ko cần mở phủ.
Còn một điều nữa: Là căn của ai thì chỉ có một người thủ mệnh, con tứ phủ phải có nhiều bóng ngài dạy.

Tôi mong muốn mọi người hiểu đạo hơn tín nhưng không được mê tín dị đoan.
Chẳng có gì thần thông mà không phải học hỏi cả. Bóng cha mẹ dạy mình rằng :"Con nhà thánh chả nhẽ không hiểu đạo, kiến thức phải học không thể tự nhiên mà có". Tìm cho mình con đường đi theo chính đạo vương đạo chứ không được tà đạo

#PageXemBoiMienPhi

#XemBoiMienPhiNet0966662332


 

Thứ Tư, 7 tháng 7, 2021

Có nên làm lễ DI CUNG HOÁN SỐ Hiểu đúng về nghi lễ Di Cung Hoán Số

 

Có nên làm lễ DI CUNG HOÁN SỐ 

Hiểu đúng về nghi lễ Di Cung Hoán Số


       Có những người sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng cùng năm nhưng số phận chưa chắc đã giống nhau. Đó là do nhiều nguyên nhân ảnh hưởng bởi môi trường tác động, do sự nỗ lực học tập, rèn luyện, do sự giác ngộ tu tập để trả nợ những ân oán do tiền kiếp gây ra…
       Luật nhân quả đã định sẵn cho số phận mỗi con người và chỉ có trời và bản thân người đó nỗ lực rèn luyện, thay đổi mới có thể làm trời xanh ngó mắt xuống nhìn mà thôi.
       Khi sản xuất một cái đĩa đựng hoa quả bằng kim loại người ta phải tính toán để ra một sản phẩm có hình dáng kích thước vẻ đẹp phù hợp để bày hoa quả. Muốn biến cái đĩa đó thành một cái bát thì họ phải phá hủy nó đi bằng cách cho vào lò nung cho nóng chảy ra rồi lại đổ vào khuôn đã định sẵn để tạo ra một sản phẩm có hình dáng kích thước phù hợp làm cái bát ăn cơm.
      Vậy muốn di cung hoán số thì con người nhất định sẽ phải như chuyện cái đĩa đựng hoa quả kia. Có nghĩa di cung hoán số thì bạn phải nhất định phải từ bỏ cuộc sống hiện nay, sau đó tiếp tục chuyển nghiệp luân hồi đến kiếp sau
      Nếu thực sự có thể di cung hoán số được thì luật nhân quả không có ý nghĩa gì nữa. Bản thân người thầy tu theo Đạo Mẫu, Đạo Phật tự cho mình làm được điều đó thì họ đã tự di cung hoán số cho chính bản thân họ, con cháu họ một cuộc sống khác chứ chưa đã đến các con nhang đệ tử.

       Vậy di cung hoán số có hay không?

      Xin trả lời là lễ di cung hoán số là nghi lễ có thật nhưng rất hiếm trường hợp có thể di cung. Một vong linh được làm người có cơ hội tu tập, học hỏi phát triển trí tuệ phải trải qua rất nhiều thời gian, hàng trăm năm …vì thế được làm người, có cơ hội trả nghiệp quý vô cùng. Những trường hợp này khi từ giã kiếp người sẽ có sớ sách trả tào quan. Khi đó họ sẽ được sống tiếp kiếp người. Nhưng không có nghĩa là sau di cung đứa trẻ hay người đó sẽ có một cuộc sống sung sướng hạnh phúc, vòng quay của luật nhận quả vẫn diễn ra như nó đã định.


    Lễ di cung làm trong những trường hợp nào:
     
    Lễ di cung hóa số thường chỉ làm với các trường hợp sau:
      - Di cung hoán số cho nhưng đứa trẻ sinh phạm giờ.
      -  Di cung hoán số xin thêm dương thọ.
      Những trường hợp xin thêm dương số là những người có phúc phần tổ tiên và của bản thân từ tiền kiếp rất lớn. Nếu sau khi được sống tiếp kiếp người họ biết làm các công việc phúc đức, giúp đỡ mọi người để tích phúc trả ơn việc được sống tiếp trên trần gian này thì sẽ càng tốt đẹp hơn.
      Vậy việc di cung để làm ăn thuận lợi, để từ ngu dốt thành thông minh, từ khổ thành sướng là không thể xẩy ra. Không thể bằng một nghi lễ là có thể không cần làm, không cần rèn luyện mà có thể có được kiến thức hay của cải.
     Người làm thầy thực sự được bề trên cấp sắc lệnh, giao cho quyền hạn hơn ai hết hiểu rõ quy luật này. Di cung hoán số không phải là một nghi lễ có thể làm bừa phứa, ai cũng làm lễ di cung, ai cũng hoán số thì còn gì là trật tự âm dương nữa.
    Thân làm đồng thầy thừa lệnh bề trên hành sự không thể tự tung tự tác đổi cung đổi số cho người, vi phạm nhiêu lần xóa bỏ lệnh sắc lệnh “đồng thầy” bị trả “quả” ngay trong hiện kiếp. Bản điện của đồng thầy, nơi thờ Tiên Phật Thánh Thần sẽ hết linh vì các bóng các giá không còn phụng lệnh bề trên giáng ứng nữa, khi đó giả Tiên giả Thánh đương nhiên sẽ có cơ hội tìm đến để tá nhập điều khiển đồng thầy.
     Người có căn đồng (thân dương trần số hệ thiên cung) là con cha con mẹ từ nhiều đời nhiều kiếp chắc chắn không thày bà nào có thể di cung được. Quyền cha phép mẹ, đường tu cho mỗi Thanh đồng đều đã được định sẵn, không phải chuyện đùa để các thày bà phán lăng nhăng, nói di là có thể di được. Cứ làm ăn khó khăn, vợ chồng trục trặc là phán di cung …thật là : Khi nhìn con cháu mình trả nghiệp do mình tạo ra thì hối hận cũng đã quá muộn rồi
       Còn chúng ta những đồng nhân là con cha con mẹ tu thân tu tâm, nương tựa theo Phật Thánh tu tập theo con đường chính đạo, nên có cái nhìn sáng suốt. Của cải là do hai bàn tay mà ra, sự bình yên trong tâm hồn là do những việc tu tập thân tâm mà có. Không nên biến mình thành nạn nhân của các đồng thầy ham danh hám lợi.

 

Tốn Hàng Chục-Trăm Triệu Để Di Cung Hoán Số-Giải Hạn Có Nên Không ???

 

Tốn Hàng Chục-Trăm Triệu Để Di Cung Hoán Số-Giải Hạn Có Nên Không ???

 

Lễ “dâng sao giải hạn”, “di cung hoán số” hay tục “đội bát nhang” chỉ là tín ngưỡng dân gian của người Việt không phải tín ngưỡng của Phật giáo.Theo giáo lý nhà Phật thì mọi việc tốt-xấu lành-dữ hên-xui…đều do Nghiệp của chúng sinh được tạo tác từ nhiều đời trước trong quá khứ hoặc chính trong đời hiện tại.Vậy giải hạn có nên chăng?

 

– Một là: Những lễ này hầu như chỉ có tác dụng “hỗ trợ” về mặt tâm lý, giúp gia chủ an tâm (với niềm tin đã được Phật-Thánh phù hộ). Khi tâm bất loạn (không còn lo lắng) thì tinh thần sảng khoái, hồ hởi, trí óc minh mẫn hơn, làm việc gì cũng dễ thành công hơn.

– Hai là: Nếu các pháp sư, thầy cúng làm lễ như vậy mà thay đổi được cả số mệnh của thân chủ, hóa giải được xui xẻo thì chẳng lẽ các thầy này lại “quyền uy” hơn cả các bậc Tiên-Thánh sao?

– Ba là: Nếu mỗi lễ tốn kém bạc triệu như vậy mà thực sự hóa giải được tai ương, “căn cao số nặng” thì chẳng lẽ Thánh-Thần chỉ phù hộ người giàu, còn người nghèo không có tiền làm lễ thì suốt đời hoạn nạn cả sao? Dân gian có câu “Hoàng thiên hữu mục” (Ông Trời có mắt) cơ mà?

 

Có nên làm lễ DI CUNG HOÁN SỐ

 

Hiện nay nghi lễ Di Cung Hoán Số đang phát triển tràn lan

 


Hiểu đúng về nghi lễ Di Cung Hoán Số


       Có những người sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng cùng năm nhưng số phận chưa chắc đã giống nhau. Đó là do nhiều nguyên nhân, ảnh hưởng bởi môi trường tác động, do sự nỗ lực học tập, rèn luyện, do sự giác ngộ tu tập để trả nợ những ân oán do tiền kiếp gây ra…
       Luật nhân quả đã định sẵn cho số phận mỗi con người và chỉ có trời và bản thân người đó nỗ lực rèn luyện, thay đổi mới có thể làm trời xanh ngó mắt xuống nhìn mà thôi.
       Khi sản xuất một cái đĩa đựng hoa quả bằng kim loại người ta phải tính toán để ra một sản phẩm có hình dáng kích thước vẻ đẹp phù hợp để bày hoa quả. Muốn biến cái đĩa đó thành một cái bát thì họ phải phá hủy nó đi bằng cách cho vào lò nung cho nóng chảy ra rồi lại đổ vào khuôn đã định sẵn để tạo ra một sản phẩm có hình dáng kích thước phù hợp làm cái bát ăn cơm.
      Vậy muốn di cung hoán số thì con người nhất định sẽ phải như chuyện cái đĩa đựng hoa quả kia. Có nghĩa di cung hoán số thì bạn phải nhất định phải từ bỏ cuộc sống hiện nay, sau đó tiếp tục chuyển nghiệp luân hồi đến kiếp sau
      Nếu thực sự có thể di cung hoán số được thì luật nhân quả không có ý nghĩa gì nữa. Bản thân người thầy tu theo Đạo Mẫu, Đạo Phật tự cho mình làm được điều đó thì họ đã tự di cung hoán số cho chính bản thân họ, con cháu họ một cuộc sống khác chứ chưa đã đến các con nhang đệ tử.

       Vậy di cung hoán số có hay không?

      Xin trả lời là lễ di cung hoán số là nghi lễ có thật nhưng rất hiếm trường hợp có thể di cung.Một vong linh được làm người có cơ hội tu tập học hỏi phát triển trí tuệ phải trải qua rất nhiều thời gian hàng trăm năm vì thế được làm người có cơ hội trả nghiệp quý vô cùng.Những trường hợp này khi từ giã kiếp người sẽ có sớ sách trả tào quan.Khi đó họ sẽ được sống tiếp kiếp người. Nhưng không có nghĩa là sau di cung đứa trẻ hay người đó sẽ có một cuộc sống sung sướng hạnh phúc vòng quay của luật nhận quả vẫn diễn ra như nó đã định.
 

    Lễ di cung làm trong những trường hợp nào:
     
    Lễ di cung hóa số thường chỉ làm với các trường hợp sau:
      - Di cung hoán số cho nhưng đứa trẻ sinh phạm giờ.
      -  Di cung hoán số xin thêm dương thọ.
      Những trường hợp xin thêm dương số là những người có phúc phần tổ tiên và của bản thân từ tiền kiếp rất lớn. Nếu sau khi được sống tiếp kiếp người họ biết làm các công việc phúc đức, giúp đỡ mọi người để tích phúc trả ơn việc được sống tiếp trên trần gian này thì sẽ càng tốt đẹp hơn.
      Vậy việc di cung để làm ăn thuận lợi, để từ ngu dốt thành thông minh, từ khổ thành sướng là không thể xẩy ra. Không thể bằng một nghi lễ là có thể không cần làm, không cần rèn luyện mà có thể có được kiến thức hay của cải.
     Người làm thầy thực sự được bề trên cấp sắc lệnh giao cho quyền hạn hơn ai hết hiểu rõ quy luật này.Di cung hoán số không phải là một nghi lễ có thể làm bừa phứa ai cũng làm lễ di cung ai cũng hoán số thì còn gì là trật tự âm dương nữa.
    Thân làm đồng thầy thừa lệnh bề trên hành sự không thể tự tung tự tác đổi cung đổi số cho người vi phạm nhiêu lần xóa bỏ lệnh sắc lệnh “đồng thầy” bị trả “quả” ngay trong hiện kiếp. Bản điện của đồng thầy nơi thờ Tiên Phật Thánh Thần sẽ hết linh vì các bóng các giá không còn phụng lệnh bề trên giáng ứng nữa, khi đó giả Tiên giả Thánh đương nhiên sẽ có cơ hội tìm đến để tá nhập điều khiển đồng thầy.
     Người có căn đồng (thân dương trần số hệ thiên cung) là con cha con mẹ từ nhiều đời nhiều kiếp chắc chắn không thày bà nào có thể di cung được. Quyền cha phép mẹ đường tu cho mỗi Thanh đồng đều đã được định sẵn không phải chuyện đùa để các thày bà phán lăng nhăng, nói di là có thể di được.Cứ làm ăn khó khăn vợ chồng trục trặc là phán di cung …thật là : Khi nhìn con cháu mình trả nghiệp do mình tạo ra thì hối hận cũng đã quá muộn rồi
       Còn chúng ta những đồng nhân là con cha con mẹ tu thân tu tâm, nương tựa theo Phật Thánh tu tập theo con đường chính đạo nên có cái nhìn sáng suốt
Của cải là do hai bàn tay mà ra, sự bình yên trong tâm hồn là do những việc tu tập thân tâm mà có
Không nên biến mình thành nạn nhân của các đồng thầy ham danh hám lợi.
 

 

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2021

Văn khấn Đền Phủ

Văn khấn Đền Phủ
         

         Nam mô A di Đà Phật!
         Nam mô A di Đà Phật!
         Nam mô A di Đà Phật!
         Con lạy chín phương trời mười phương chư phật ngũ phương ngũ phật thập phương thập phật hằng hà sa số Đức Phật công đức công lượng vô biên

        Đệ trước án tiền kính lạy Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
        Cung Phật thỉnh Thánh cung thỉnh thiên cung tấu thỉnh thiên đình sám hối tam phủ thần vương tứ phủ thánh đế.
        Con xin sám hối Thiên phủ Thánh Đế - Cao thiên Thượng thánh- Đại từ Nhân giả - Huyền khung Cao Thượng đế -Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn.
        Con sám hối Nhạc Phủ Thánh Đế - (Tản Viên Sơn Thánh) - ngũ nhạc thần vương - năm phương sơn động.
        Con sám hối Thủy Phủ Thánh Đế - (Lạc Long Quân Đại Đế) - Bát Hải Long Vương - tám phương cửa bể.
        Con sám hối Địa phủ Thánh Đế- Thập điện Minh Vưong tòa Chương Địa phủ, Bắc Cực Trung Thiên Tam nguyên tam phẩm tam quan.
        Con sám hối Đại Thánh Nam Tào Lục Ty duyên thọ tinh quân
        Con sám hối Đại Thánh Bắc Đẩu Cửu hoàn giải ách tinh quân, Cửu tinh thiên chúa thập nhị bát tú chư bộ thiên binh chư dinh văn võ.
        Con sám hối tấu lạy Quốc Mẫu vua bà bơ tòa tiên thánh tứ phủ Thánh Mẫu:.
        Kính lạy Cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa Thiên tiên thánh mẫu.
        Kính lạy Địa tiên Thánh mẫu Quỳnh hoa Liễu Hạnh Vân Hương Thánh Mẫu - Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương thiên tiên Thánh Mẫu.
         Kính lạy Thánh Mẫu Đệ Tam thủy cung, Xích Lân long Nữ,Thủy Tinh Công chúa
         Kính lạy Đức Mẫu thượng ngàn Diệu Nghĩa Diệu Tín thiền sư Tuần Quán Đông Cuông đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
        Con lạy trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại Vưong Trần triều Khải Thánh , Vương Phụ Vưong mẫu Vương phu nhân
        Tứ vị Vưong tử- Nhị Vị Vương cô- vương tế vương tônLiệt vị tướng tướng công đồng Trần Triều
         Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh, Bách vị các quan ngũ vị tôn quan
                   + Quan đệ nhất Thượng Thiên
                   + Quan đệ nhị thượng ngàn
                   + Quan đệ tam thoải phủ
                   + Quan đệ tứ khâm sai
                   + Quan đệ ngũ tuần tranh
                Con sám hối điều thất tôn quan- Hoàng triệu tôn quan
         Con lạy tứ phủ chầu bà thập nhị chầu bà
                    + Chầu đệ nhất thượng thiên
                    + Chầu đệ nhị thượng ngàn
                    + Chầu đệ tam thủy phủ
                    + Chầu đệ tứ khâm sai
                    + Chầu năm Suối Lân
                    + Chầu sáu Lục Cung
                    + Chầu bảy Kim Giao
                    + Chầu tám Bát Nàn
                    + Chầu chín cửu tỉnh
                    + Chầu mười Mỏ Ba
                    + Chầu Bé Bắc Lệ
                    + Chầu bà bản đền
        Con lạy Tứ phủ thánh hoàng thập vị thánh hoàng. Sám hối ông bơ thoải quốc, ông bảy Bảo Hà, ông mười Nghệ An
        Sám hối tứ phủ thánh cô
                    + Cô đệ nhất thượng thiên
                    + Cô đôi Đông Cuông
                    + Cô bơ Thác Hàn
                    + Cô tư địa phủ
                    + Cô năm Suối Lân
                    + Cô sáu Lục Cung
                    + Cô bảy Kim Giao
                    + Cô tám đồi chè
                    + Cô Chín Sòng Sơn
                    + Cô mười Đồng Mỏ
                    + Cô bé sơn lâm
                    + Cô bé bản đền
         Sám hối tứ phủ thánh cậu: Cậu Cả, cậu Đôi, cậu Bơ,cậu Bé
         Con lạy Ngũ dinh Thần tướng,  Ngũ hổ Thần quan.
         Con lạy Thanh xà Tướng quân, Bạch xà Tướng quân
         Con lạy công đồng các bóng các giá, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
         Con lạy chầu chúa thủ đền cùng quan thủ điện, thổ địa thần kỳ thần linh bản xứ
         Đê tử con là:.............................................. .................................
         Ngụ tại:............................................ .................................................
         Kim niên kim nguyệt ,cát nhật lương thời
         Mậu tý niên...nguyệt.....thời

        Đệ tử con nhất tâm nhất lễ đêm tưởng ngày mong nhất tâm chí thiết nhất dạ chí thành, nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật tờ đơn cánh sớ, mang miệng tới tâu, mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ .

       Trên mẫu độ dưới gia hộ mẫu thương, vuốt ve che chở, phù hộ độ trì cho con ba tháng hè chín tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối: Tứ thời bát tiết, tháng thuấn ngày nghiêu, phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.
       Mẫu cho con được sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân cho tài mùa hạ, cho tươi như lá cho đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới,
       Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở,lộc gần lộc xa, hồ hết lại có hồ vơi lại đầy, điều lành mang đến điều dữ mang đi.

Mẫu cứu âm độ dương cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát cải hạo vi tường, thay son đổi số nảy mực cầm cân.
        Mẫu phê chữ đỏ Mẫu bỏ chữ đen, cho con đựơc trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu trên vì dưới nể, cho gặp thầy gặp bạn gặp vạn sự lành.
        Mẫu ban danh ban diện ban quyền, cho con có lương có thực có ngân có xuyến, tài như xuyên chí lộc tựa vân lai, cầu tài đắc tài cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an. Trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá phúc lộc đề đa, cho trên thuận dưới hòa, trên bảo dưới nghe trên đe dưới sợ.
        Mẫu cho nước chảy một dòng, thuyền xuôi một bến, bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ. Năm xung Mẫu giải xung, tháng hạn giải hạn, cho gia chung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh, duyên sinh trường thọ
        Đệ tử con người trần mắt thịt nhỡn nhục nan chi việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh ăn, con ăn chưa sạch, con bạch chưa thông, ăn chưa nên đọi, nói chưa nên lời, không biết kêu sao cho thấu, tấu sao cho tường ,
        Con biết tới đâu con tâu tới đấy, ba điều ko sảy bảy điều ko sai.
        Trăm tội mẫu xá vạn tội mẫu thương.Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm.
        Mẫu soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần
        Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành con giàu một bó con khó một nén giàu làm kép hẹp làm đơn, Thiếu mẫu cho làm đủ vơi mẫu cho làm đầy .
        Mẫu chấp kỳ lễ vật-- chấp lễ chấp bái
        Chứng tâm cho lời kêu tiếng khấn của con bay như phượng lượn như hoa tới cửa ngài ngồi tời ngai ngài ngự.
        Cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm .
        Con nam mô a di đà phât(3 lần) 


 

 

KHĂN ÁO BẢN MỆNH LÀ GÌ?

 Các cụ có câu "Đầu trọc là sư ba thước đỏ lắc lư là đồng" hay câu "Sạch sành sanh mới được manh áo đỏ".Từ hai câu trên ta thấy rằng một người con của Mẫu có điểm nhận dạng đặc trưng là tấm khăn phủ diện màu đỏ.
Có tài sản quý nhất là chiếc áo bản mệnh màu đỏ. Vậy khăn phủ diện và áo bản mệnh là gì? Ý nghĩa của chúng như nào? Tôi xin được đưa ra một số ý kiến như sau:


TẠI SAO KHĂN ÁO PHỦ DIỆN LẠI LÀ MÀU ĐỎ?
Khăn phủ diện áo bản mệnh có 1 điểm chung là màu đỏ.Màu đỏ theo dân gian là màu để thờ Thánh Màu của máu màu của lửa và màu của sự sống
Thủa hồng hoang con người lấy lửa để xua đuổi cái tối tăm xua đuổi tà ma thú dữ.Nên việc lấy màu đỏ để thờ Thánh mang ý nghĩa của sự chở che bao bọc
Màu đỏ cũng là màu máu màu của sinh khí của sự vận chuyển sinh khí đất trời.

KHĂN PHỦ DIỆN LÀ GÌ?
Khăn phủ diện là một mảnh vải đỏ hình chữ nhật. Dùng để phủ lên trên đầu người ngồi Đồng khi Thánh giáng và xe giá.Việc phủ khăn như vậy thể hiện sự tôn kính đối với Thánh.Việc ngài nhập xuất là một việc bí ẩn và thiêng liêng nên việc để cho người trần thấy là bất kính giảm đi tính thiêng và sự huyền bí của nghi lễ.
Việc trùm đầu như vậy cũng giúp người ngồi đồng dễ nhiếp tâm tránh phân tâm bởi các sự kiện bên ngoài. Màu đỏ của khăn phủ diện cũng giúp người ngồi đồng dễ thăng hoa hơn.Khăn này cũng thể hiện sự chuyển đổi giữa người trần và Thánh.Trước khi đội khăn là người trần và sau khi mở khăn là Thánh hoặc ngược lại.Ở đây thể hiện cho sự tái sinh

ÁO BẢN MỆNH LÀ GÌ?
Áo bản mệnh là một chiếc áo dài màu đỏ.Xưa kia do điều kiện khó khăn nên người hầu đồng chỉ mặc chiếc áo bản mệnh màu đỏ cho hầu tất cả các giá. Các giá phân biệt nhau bằng khăn đai mạn và đồ trang sức.
Áo bản mệnh là chiếc áo khi mà tân đồng mở phủ phải sắm khi các quan về mở phủ thì ngài chứng áo và lấy nén hương chấm vào áo để chứng tỏ ngài đã nhận đồng.Xưa kia khi hầu Mẫu thì chỉ có mặc áo bản mệnh ngồi hầu tráng bóng

TẠI SAO LẠI NÓI KHĂN
ÁO BẢN MỆNH LÀ TÀI SẢN THIÊNG LIÊNG?

ÁO BẢN MỆNH,KHĂN PHỦ DIỆN- TÀI SẢN THIÊNG LIÊNG CỦA NGƯỜI CON THÁNH
Chiếc áo bản mệnh và khăn phủ diện luôn đồng hành cùng người con Mẫu từ khi ra đồng đến khi mất đi. Nó được Thánh về chứng giám và chứng nhận làm con Thánh.
Chiếc áo đó tượng trưng cho sự trong sạch của người ngồi đồng và tấm lòng thủy chung như nhất của người con đồng đối với Thánh.Những thứ này luôn được giữ sạch sẽ cẩn thận.Chỉ dùng khi hầu thánh.
Những khăn áo này không bao giờ cho ai hoặc cho ai mượn.Chiếc áo đó cứ như vậy cho đến khi chết đi sang thế giới bên kia họ vẫn là con Thánh.
Vì vậy mà ta sẽ thấy những ông/bà đồng khi mất đi họ vẫn mặc chiếc áo bản mệnh đầu gối lên chiếc khăn phủ diện để sang thế giới bên kia họ vẫn một lòng phụng sự Thánh.
Người ra đồng đến với Thánh với một chiếc khăn phủ diện và chiếc áo bản mệnh.Cùng với tâm thành kính đã đủ để hầu hạ nhà Ngài.Đủ để theo Thánh đến mãn chiều xế bóng


Đạo Mẫu Và Tín Ngưỡng Thờ Tam Phủ Tứ Phủ

 Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và đặc biệt là rất thuần Việt nói đến Đạo Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao mà người ta tôn là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu , tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu người ta ko chỉ thờ riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh(Mà người ta thường gọi là , Tam Phủ Công Đồng Tứ Phủ Vạn Linh) với một trật tự chặt chẽ mà trật tự này được thể hiện trong các giá hầu đồng người ta thỉnh các vị Thánh Mẫu,Chúa Bà Quan Lớn Chầu Bà Quan Hoàng , Tiên Cô, Thánh Cậu theo trật tự nhất định . Sau đây người viết sẽ giới thiệu sơ qua hệ thống các vị thánh thần trong Đạo Mẫu''

Trong các đền phủ của Đạo Mẫu luôn có rất nhiều ban thờ các vị thần thánh và trước tiên ta phải kể đến vị thần tối cao nhất là NGỌC HOÀNG tuy nhiên khi thỉnh đồng người ta không thỉnh NGỌC HOÀNG mà chỉ thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu .Còn khi thỉnh đồng hay hầu đồng người ta chỉ thỉnh các vị thánh từ phía dưới đây

I.Tam Tòa Thánh Mẫu:

Nếu ko kể đến Ngọc Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của đạo Mẫu khi hầu đồng người ta phải thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến các vị khác tuy nhiên có một điều là khi thỉnh mẫu người hầu đồng không bao giờ mở khăn phủ diện mà chỉ đảo bóng rồi xa giá ,đó là quy định ko ai được làm trái và hầu như thế người ta gọi là "hầu tráng mạn" hay các cụ đồng cao tuổi gọi là "Trải qua xem rạng" sau giá mẫu từ hàng Trần Triều trở đi mới đựoc mở khăn hầu đồng cũng theo sách cổ thì vì ba giá Mẫu lại hóa thân vào ba giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam nên coi như Ba giá Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu.Ba giá Mẫu trong Tứ Phủ gồm:

1.Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên : Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa hay chính là Công Chúa Liễu Hạnh Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi nơi nhưng quần thể di tích lớn nhất là Phủ Dày Vụ Bản Nam Định ( Mở hội ngày 3/3 ÂL)tương truyền là nơi Mẫu hạ trần với các đền phủ như Phủ Chính , Phủ Công Đồng , Phủ Bóng (Đền Cây Đa Bóng) ngoài ra còn có Đền Sòng ở Thanh Hoá ,Phủ Tây Hồ ở Hà Nội

2.Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn : Đông Cuông Công Chúa.Tương truyền là vị Thánh Mẫu cai quản Thượng Ngàn rừng núi. Đền thờ chính là Đền Đông Cuông ,Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái

3.Mẫu Đệ Tam Thoải Cung: Xích Lân Long Nữ .Tương truyền là vị Thánh Mẫu , con Vua Bát Hải Động Đình ,cai quản các sông suối , biển , các mạch nước trên đất Nam Việt .Người ta thường lập đền thờ bà ở các cửa sông , cửa biển để cầu biển lặng sóng yên

II.Chư Vị Trần Triều:

Trong dân gian ta có câu

"Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ"

Mẹ ở đây là chỉ Mẫu Liễu Hạnh ,còn Cha chính là Đức Thánh Trần Hưng Đạo , một vị cũng được hầu trong Đạo Mẫu , cùng với một số giá gọi là hàng Trần Triều .Tuy nhiên theo một số cụ già đồng cựu cho biết thì bên Đạo Mẫu và bên Trần Triều rất kị nhau , vì thế phải là người đồng nào có căn mạng thì khi hầu đồng mới thỉnh và hầu về các giá Trần Triều sau giá Mẫu , còn không thì thông thường người ta thường không thỉnh về hàng Trần Triều.Chư vị Trần Triều gồm:

1.Đức Thánh Ông Trần Triều: Hưng Đạo Đại Vương , (ông là một trong số 17 vị tướng tài ba nhất trên thế giới )người ta tôn làm Đức Thánh Trần , giúp dân sát quỷ trừ ma , trừ dịch bệnh,thế nên ở đâu có giặc dã dịch bệnh thì đều cầu đảo ông tất đựoc linh ứng, khi hầu đồng về giá này ,người ta mặc áo bào đỏ thêu rồng ,tay cầm thanh đao, ngoài ra theo một tục cổ , khi hầu về giá Đức Thánh Ông Trần Triều , người hầu đồng còn cầm dải lụa đỏ rồi mô phỏng động tác thắt cổ .Đền thờ ngài cũng có ở rất nhiều nơi nhưng lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc , Chí Linh ,Hải Dương với hội mở ngày 20/8 ÂL ngoài ra còn có đền Bảo Lộc ,Tức Mặc ,Thiên Trường ,Nam Định

2.Đệ Nhất Vương Cô : cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương , khi về đồng hay mặc áo đỏ thêu rồng , đội khăn đóng , vấn khăn đỏ phủ lên,tuy nhiên có ít người hầu giá này mà cũng chỉ tráng bóng , người ta khi hầu về Trần Triều , chỉ hay hầu về Đức Thánh Trần và Đệ Nhị Vương Cô

3.Đệ Nhị Vương Cô: cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương ,khi về đồng hay mặc áo xanh thêu rồng , đội khăn đóng , vấn khăn xanh phủ lên ,có kiếm cờ giắt sau lưng , hai tay cũng cầm kiếm và cờ ,theo quan niệm , cô cũng là người có phép sát quỷ trừ tà , người hầu về giá này thường đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm tắt lửa gọi là tiến lửa hay ăn lửa để tróc tà .

Trong hát văn , ca ngợi hai vị Vương Cô(Các bà cụ hầu bóng về hàng Trần Triều thường tôn xưng Nhị Vị Vương Cô là "Kim Chi Đôi Nước") như sau :

Khi xuống đất lúc lên trời

Gươm vàng hai chiếc rạch đôi thiên hà

Gánh hai vai giang sơn còn nhẹ

Tuốt gươm thiêng rạch sẻ chín sông

III.Tam Vị Chúa Mường:

Trên Toà Sơn Lâm Sơn Trang có 18 Chúa Bói,12 Chúa Chữa, nhưng khi hầu đồng , chỉ thỉnh ba vị tối thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường , ba vị Chúa này là những người phụ nữ nhân đức , cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được người đời nhớ ơn và lập đền thờ :

1,Chúa Đệ Nhất Thượng Thiên : Chúa Thượng ,bà là người giúp vua trị quốc an dân , hơn nữa theo quan niệm , Chúa Đệ Nhất là người nắm giữ sổ Tam Tòa , trông coi mọi việc nên được tôn làm Chúa Thượng ,ngoài ra thì những người có tài cúng lễ đều là do bà dạy và ban lộc nên đều phải do bà Chúa Thượng dạy đồng, khi về đồng bà mặc áo gấm hoặc lụa đỏ thêu hoa thêu phượng , và chỉ cầm quạt khai quang,khám xét bản đền,chứng tâm cho lòng thành của gia chủ đên thơ bà tại tam đảo ? tây thiên

2,Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyết Hồ): Chúa Bói, bà là người có tài xem bói , tương truyền mỗi khi đức vua ra trận đều nhờ người đến thỉnh bà bấm đốt tay xem xét , những người xem bói đều phải lập đàn tôn nhang Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ gọi là mở đàn Chúa Bói,khi về đồng bà mặc áo xanh, múa mồi.Đền thờ bà là Đền Nguyệt Hồ ,Phố Kép ,Bố Hạ , Bắc Giang

3,Chúa Đệ Tam Lâm Thao: Chúa Chữa , bà còn đựoc gọi là Chúa Ót, bà chúa mồ côi cha mẹ từ bé và bị mù nhưng bà lại có tài bốc thuốc nam cứu dân ,khi về đồng bà mặc áo trắng , đội khăn choàng trắng và múa mồi.Đền thờ bà là Đền Lâm Thao,Cao Mại,Việt Trì, Phú Thọ

IV.Ngũ Vị Tôn Ông_Công Đồng Quan Lớn

Là các vị quan lớn trong Tứ Phủ , cai quan bốn phương và trung tâm ,đều là các vị hoàng tử danh tướng , có công với quốc gia .Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính là gồm 5 vị quan lớn , nhưng ở một số nơi(như Hải Phòng) khi hầu đồng người ta thỉnh 6 vị sau

1.Quan Đệ Nhất :Tương truyền là Tôn Quan Đại Thần ,sắc phong tước Công Hầu , ngôi Thượng Thiên ,khi ngự đồng mặc áo đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ điệp

2.Quan Đệ Nhị :Quan Thanh Tra Giám Sát,sắc phong Thái Hoàng ,tương truyền là người cai quản sơn lâm thượng ngàn , thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần làm mưa gió ,khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng .Đền Quan được ca ngợi là đẹp nhất trời Nam chính là đền Quan Giám , Lạng Sơn với ngày hội chính là 10/11 ÂL

3.Quan Đệ Tam : Quan Tam Phủ , Bơ Phủ Vương Quan ,sắc phong Thái Tử Đệ Tam , con Vua Bát Hải Động Đình ,là người nắm giữ kỉ cương nơi Long Cung ,cai quản Sơn Thoải Đại Giang ,các con sông trên khắp nước Nam .Cũng theo tương truyền thì ông giáng trần cứu dân , trở thành vị tướng thủy quân tài ba ,khi ngự đồng mặc áo trắng thêu rồng , tay cầm song kiếm tung hoành giữa trận tiền , theo truyền thuyết , trong một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu , ông hy sinh , bị giặc chém mất đầu , chiếc đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục Đầu , vì thế mới có hai đền quan hai bên bờ sông Lục Đầu,Hưng Yên là Đền Lảnh Giang _nơi thờ mình và Đền Xích Đằng_nơi thờ đầu với ngày hội chính là 24/6 ÂL

4.Quan Đệ Tứ :Quan Khâm Sai,sắc phong Thái Tử Thiên Cung , là người quản cai Tam Giới Tứ Phủ ,ông cai quản chuyện mười phương trên trời dưới đất , kiêm chi cả đạo phật thiền gia , khi ngự đồng mặc áo vàng thêu rồng , cũng chỉ làm lễ và chứng điệp sớ (Tuy nhiên khá ít người khi hầu đồng về giá này )

5.Quan Đệ Ngũ :Quan Tuần Tranh ,sắc phong Công Hầu ,là vị tướng tài dưới thời Hùng Vương 18 cai quản miền duyên hải sông Tranh , giúp vua dẹp giặc Triệu Đà, tuy nhiên do bị oan khuất nên bị đày về vùng Kì Cùng ,Lạng Sơn ,theo quan niệm dân gian , quan Tuần Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời , theo sắc vua phong thì ông kiêm chi Tam Giới,khi thượng đồng ban dấu cứu dân trừ tà, khi hiển ứng linh từ thì nổi trận phong vân , thần cơ vang dậy khắp mọi miền, được nhân dân thờ phụng ở khắp các cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần Tranh tại Ninh Giang , Hưng Yên là nơi quê nhà ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì Cùng , Lạng Sơn là nơi ông bị đày bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa (đã đi vào ca dao ), khi ngự đồng mặc áo lam thêu rồng cầm long đao , về giúp dân tróc quỷ trừ tinh, tế độ sinh nhân .Ngày mở hội ông là ngày 25/5 ÂL _là ngày ông bị đi đày

6.Quan Điều Thất:Là hàng Quan thứ 7 , giá Quan này chỉ một số nơi mới thỉnh về ngự đồng (như Hải Phòng , Hưng Yên , Bắc Ninh )ông Điều Thất cũng là con vua Bát Hải Động Đình ,giáng thế giúp dân, khi ngự đồng mặc áo đỏ điều thêu rồng

V.Tứ Phủ Chầu Bà

Cũng như các vị Chúa Mường , các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ cũng là những người phụ nữ nhân đức hay các nữ tướng có công với dân với nước nên khi từ trần được nhân dân thờ phụng và được tôn thành các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ , được Vua Mẫu giao cho cai quản sông núi và mọi việc nhân gian.Hàng Tứ Phủ Chầu Bà có 12 vị tuy nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau , thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5.Các vị Chầu Bà gồm :

1;Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên :được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất khi thỉnh đồng (Vì Tòa Thánh Mẫu ko mở khăn ngự đồng ), là vị Chầu tối thượng ,đứng đầu hàng Chầu , ngự tại Ngọc Điện , Thượng Giới ,cũng có khi bà rong chơi Phủ Tía , Lầu Hồng ,vui vẻ ngự trong Đền Rồng sớm hôm .Tuy nhiên cũng khá ít người mở khăn phủ diện để hầu Chầu Đệ Nhất

2;Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn :được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị ,bà vốn là Công Chúa Thiên Thai , giáng sinh Hạ Giới , quyền cai thượng ngàn , quyền cai tam thập lục châu .Khi ngự đồng chầu mặc áo xanh thêu hoa ,đầu vấn khăn xanh ,cài trâm hoa ,tay cầm mồi tượng trưng cho bó đuốc đi rừng ,hơn nữa khi hầu về giá này còn có một tục rất đặc biệt là nghi thức Trình Trầu hay Đội Trầu :các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã tôn nhang bản mệnh,vào ngày hầu đồng trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới) , ngồi phủ khăn đỏ đầu đội mâm trầu cau để"trước trình Phật Thánh sau trình Vua Cha,trình lên Tứ Vị Vua Bà ,trình đồng Tiên Thánh , trình tòa Sơn Trang , trình lên Thập Vị Quan Hoàng ,Tiên Cô ,Thánh Cậu chứng mâm giầu trình " ,khi trình người ngồi lễ phải đặt lên mâm trầu cau 1200 đ hoặc 12000 đ (tùy mỗi nơi )tượng trưng dâng lên 12 giá chính của hàng Chầu Bà là những vị giúp mình được đội giầu.Đền thờ Chầu Đệ Nhị chính là Đền Đông Cuông , Tuần Quán , Yên Bái

3;Chầu Đệ Tam Thoải Cung :được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam , là Lân Nữ Công Chúa , Ngọc Hồ Thần Nữ , vốn là con vua Thủy Tề ,ngự tại Thủy Phủ Thiên Thai chốn Thoải Cung,Tam Phủ .Bà được coi là người cai quản các sông suối biển hồ mạch nước trên đất Nam Việt , bà độ cho thuyền bè trên sông trên biển được thuận buồm xuôi gió.Câu chuyện về vị Xích Lân Long Nữ này rất buồn :Bà vốn con vua Thủy Tề Bát Hải Động Đình ,lên nhân gian kết loan phòng cùng nho sĩ Kính Xuyên,Kính Xuyên đi vắng bà ở nhà khâu áo ,chẳng may kim đâm vào tay ,bà lấy mảnh vải trắng thấm máu , đứa tì nữ Thảo Mai nhặt lấy,khi Kính Xuyên về nó vu oan cho bà là ở nhà cắt máu ăn thề tư thông với kẻ khác ,Kính Xuyên ko nghe bà thanh minh ,một mực đuổi bà đi ,bà đành phải tìm đường về thủy phủ ,trên đường đi bà ngồi khóc bên vệ đường thì gặp văn sĩ Hữu Nghị , ông hỏi bà kể hết sự tình ,rồi bà lấy máu ,viết thư kể hết nỗi oan và từ biệt Kính Xuyên rồi nhờ Hữu Nghị đưa giúp,về phần mình bà ra bờ biển Đông đến chỗ có cây ngô đồng ,bà rút cây kim thoa trên đầu gõ vào cây , tức thì dưới thủy phủ có quan quân xe lọng lên rước bà về , về phần Kính Xuyên sau khi xem thư , ngộ ra mọi việc , chạy ra bờ biển thì xe loan đã từ từ đưa bà về thủy phủ ,tất cả chỉ còn lại hình bóng mờ ảo

4;Chầu Đệ Tứ Khâm Sai : Bà được phong danh là Chiêu Dung Công Chúa , giáng thế là Chầu Bà Khâm Sai giúp dân , ngự đồng ảnh bóng khắp miền gần xa, hơn nữa Chầu cũng là người có quyền tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh là cũng là người quyền cai bản mệnh gia trung ,khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu rồng một tay cầm kiếm một tay cầm cờ để đi cứu dân .Đền thờ bà là Đền Khâm Sai hay Phủ Bà Đệ Tứ( còn gọi làđền Cây Thị )ở Quý Hương , An Thái ,Vụ Bản ,Nam Định

5;Chầu Năm Suối Lân : Bà là vị Chầu trên Sơn Trang Thượng Ngàn ,trấn cửa rừng Suối Lân dưới thời Lê Trung Hưng ,bà có phép thần thông biến lá thành thuyền ,cứ trăng thanh , hổ báo Chầu hiện về .Chầu ngự đồng mặc áo xanh hoặc áo lam thêu hoa cỏ ,đầu vấn khăn chàm tím.Đền Chầu là đền Suối Lân ,ngay bên cầu Sông Hóa 2 ở Lạng Sơn ,bên cạnh đền có con suối quanh năm xanh ngắt chính là Suối Lân

6;Chầu Lục Cung Nương :Bà là Lê Triều Lục Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn ,cũng như Chầu Năm ,bà trấn cửa rừng Chín Tư ,theo tương truyền Chầu Lục cũng là người có phép thần thông và rất đành hanh ,thường rong chơi có khi chơi núi Giùm,Ỷ La ,chầu có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động ,tà ma phách tán hồn xiêu ,người trần gian ai ko biết ,làm điều sai trái chầu liền qưở ngay và hành cho bị điên, lúc đó phải sắm nón xanh hài xảo để sám hối đền Chầu. Khi ngự đồng chầu thường mặc trang phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân .Đền Chầu lập tại rừng Chín Tư , Hữu Lũng ,Lạng Sơn ,gọi là đền Lũng với ngày mở hội là 20/9 ÂL

7;Chầu Bảy Kim Giao :Bà cũng là một vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn ,theo tương truyền bà cũng là vị Chầu Bà của dân tộc Mọi ,bà giúp người dân tộc Mọi biết làm ăn buôn bán nên được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ .Khi về đồng Chầu mặc áo gấm tím .Đền Chầu là Đền Kim Giao ,Mỏ Bạch ,Thái Nguyên

8;Chầu Tám Bát Nàn :Bà tên thật là Vũ Thục Nương ,quê ở Tiên La ,Đông Hưng ,Thái Bình .Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai Bà Trưng ,phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà để trả thù cho tướng công là Phạm Hương và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn (8 nạn ) nên nhân dân suy tôn làm Bát Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch đi của từ Bát Nạn ),sau này năm 43(SCN) bà hi sinh tại thị trấn Đồng Mỏ ,Lạng Sơn.Vậy nên hiện giờ có 2 đền thờ bà là Đền Tiên La ,Đông Hưng ,Thái Bình là nơi quê nhà và Đền Đồng Mỏ ,Lạng Sơn là nơi bà hi sinh .Khi ngự đồng bà mặc áo vàng ,đội khăn đóng ,sau lưng giắt kiếm cờ ,hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông pha một mình phá mấy vòng vây .Ngày mở hội bà là ngày 17/3 ÂL

9;Chầu Chín Cửu Tỉnh :Bà là Chầu Cửu (Theo âm Hán :Cửu là chín ,Tỉnh là giếng nên Cửu Tỉnh dịch là Chín Giếng )cai quản giếng âm dương điều hòa định thái,khi thanh nhàn bà ngự trên chiếc xe rồng dạo chơi.Khi về đồng chầu mặc áo hồng ,cầm quạt khai quang .Đền Chầu ngự cũng là đền Sòng ở Bỉm Sơn Thanh Hóa

10;Chầu Mười Mỏ Ba : Bà là Nữ Tướng trấn giữ ải Chi Lăng ,giúp vua Lê Thái Tổ giết được tướng giặc Liễu Thăng ,sau lại giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba ,được triều đình phong công,trẻ già nhớ ơn ,đến cuối thu chầu mãn hạn về thiên nhưng hàng đêm khi canh ba giờ Tí Chầu hiện ra ,cưỡi trên mình ngựa hiên ngang oai hùng và lưng đeo kiếm bạc cung vang ,cờ lệnh do vua ban.Khi ngự đồng Chầu mặc áo vàng ,đeo vòng bạc đai xanh mĩ miều ,chân quấn xà cạp ,tay cầm kiếm ,tay cầm cờ hoặc mồi .Đền Chầu là Đền Mỏ Ba ,lập ngay sát ải Chi Lăng ,Lạng Sơn

11;Chầu Bé Thượng Ngàn :Đây là tên gọi chung các vị Chầu Bà người Thổ Mường ,hầu hàng thứ 11 ,được coi là các vị Chầu Bé đành hanh nhưng tài phép ,cai quản Tòa Sơn Trang ,có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng hầu cận ,khi về đồng mặc quầy(váy)& áo (dân tộc )đầu chít khăn thổ cẩm ,chân quấn xà cạp ,vai đeo gùi tay cầm mồi soi đường .Có rất nhiều vị Chầu Bé ở các Đền khác nhau , nhưng người ta hay thỉnh nhất là các vị sau:

a;Chầu Bé Bắc Lệ

b;Chầu Bé Đông Cuông

c;Chầu Bé Đồng Đăng

d;Chầu Bé Tam Cờ

12;Chầu Bé Thoải Cung :Bà cũng là chầu Bé nhưng là ở dưới Thoải chứ ko phải trên Thượng như các Chầu Bé ở hàng thứ 11 ,nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ 12.Tuy nhiên cũng có rất ít người hầu về giá này

Như đã nói ở trên, ngoài 12 vị Chầu Bà chính ,một số nơi , đôi lúc người ta thỉnh thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5 đó là:

3*;Chúa Thác Bờ : đôi khi vào hàng Chầu Bà , người ta thỉnh Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam hoặc ko thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn Chúa Thác .Chúa Thác Bờ là bà Chúa người Mường (Nhưng ko thuộc hàng Tam Vị Chúa Mường ),giáng tại Hoà Bình .Tương truyền Chúa Thác vốn là tiên nữ giáng sinh tại nơi thắng tích ,dạy người Mường biết trồng trọt ,đánh bắt cá dưới sông Đà .Khi thanh nhàn Chúa thường bẻ lái dạo chơi khắp chốn ,vượt sông Đà dạo khắp suối khe ,rong chơi Hang Miếng ,Suối Rút ,Chợ Bờ,Hang Pía ,Chợ Phương Lâm ,Kim Bôi ,Chầm Mâm ,Yên Lịch và dấu tích còn ghi lại rõ nhất là ở Động Tiên ngay giữa dòng sông Đà .Khi về đồng có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn choàng trắng , có khi lại mặc váy đen áo trắng đai xanh ,bên hông có xà tích bạc ,túi dao quai ,một tay cầm mồi , một tay cầm mái chèo bẻ lái giữa dòng sông Đà cuồn cuộn sóng dữ .Đền thờ Chúa Thác là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi ,Hoà Bình gần với công trình thuỷ điện Thác Bà và Hoà Bình ,đường đi rất khó khăn , phải đi bằng ca-nô mới đến được

5*;Chúa Bà Năm Phương :Giá này thường đựoc hầu ở Hải Phòng và được thỉnh trước giá Chầu Năm Suối Lân .Chúa được tôn là Chúa Bà Năm Phương Ngũ Phương Bản Cảnh vốn là Bạch Hoa Công Chúa ,sau bị trích giáng vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang , Gia Viên,đi về tại cây đa mười ba gốc ,tương truyền Chúa bà là người cai quản bản cảnh ngũ phương trong trời đất .Khi ngự đồng có khi Chúa mặc cả bộ trắng cũng có khi chỉ phủ chiếc khăn phủ diện đỏ làm khăn choàng ,về khám xét bản đền chứng tâm cho gia chủ rồi cầm tiền tung lên để khai quang trong ngày đầu năm .Người ta thương dâng Chúa bộ nón hài và đĩa hoa trắng (bạch hoa) ,trong đàn mã mở phủ phải có một cỗ xe trắng dâng Chúa Bà .Đền Chúa bà là Đền Cấm , Phố Cấm ,Lê Lợi ,Hải Phòng , tuy nhiên nơi tập trung đông nhất là Vườn Hoa Chéo ,Hải Phòng

VI.Tứ Phủ Ông Hoàng _Hội Đồng Quan Hoàng

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng .Hàng Ông Hoàng gồm:

1,Ông Hoàng Cả :Vốn là con Đức Vua Cha ,giáng trần mang vẻ lịch sự tốt tươi ,độ cho dân chúng ấm no ,khi thì ông rong chơi thượng giới cưỡi con Xích Long .Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đầu đội khăn xếp,có phủ vỉ lép màu đỏ

2,Ông Hoàng Đôi :còn gọi là Quan Triệu Tường ,ông là danh tướng họ Nguyễn , thời phù Lê dẹp Mạc ,có công lớn với nhà Lê ,tương truyền ông đem quân lên ngàn làm cho đùng đùng súng nổ dậy vang đất trời .Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết thành hình chữ thọ đầu đội khăn xếp ,có phủ vỉ lép xanh ,tay cầm lá cờ lệnh to may bằng vải ngũ sắc .Đền thờ ông là Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa

3,Ông Hoàng Bơ :Vốn là con vua Bát Hải Động Đình ,hay biến hiện lên mặt nước lạ lùng với chân dung đẹp khác thường ,thường phù trợ cho người làm ăn buôn bán và những ngư dân đánh cá ,khi thanh nhàn ông thương ngồi trên thuyền rồng dạo chơi uống rượu đánh cờ ngâm thơ nghe đàn thả hồn cùng gió trăng .Khi ngự đồng ông mặc áo trắng thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đai vàng ,đầu đội khăn xếp có phủ vỉ lép trắng .tay cầm đôi hèo hoa ,cũng có khi một tay cầm quạt ,một tay cầm mái chèo thong thả chèo thuyền dạo chơi .Đền thờ ông thường được lập ở các cửa sông

4,Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc :ông vốn là thương gia bên Trung Quốc , từ nước Đại Yên sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người nghèo khổ lên đựoc suy tôn làm Ông Bơ nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với Ông Hoàng Bơ Thoải của Việt Nam .Khi ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa .Đền thờ ông là Đền Quan trên Bắc Giang

5,Ông Hoàng Bảy Bảo Hà :Ông vốn là con vua Thượng Đế Ngọc Hoàng , giáng vào nhà họ Nguyễn người Tày Nùng làm người con thứ 7 .Ông là người có công giúp vua Lê dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp dân chúng khai hoang lập ấp ,nên sau khi ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà Trái Hút người ta lập đền thờ ông.Theo tương truyền, ko chỉ là vị tướng giỏi tunh hoành trên đất Lào Cai mà Ông Bảy còn là người nổi tiếng phong lưu , ông hút thuốc phiện (vậy nên mới gọi đất ông ngự là Trái Hút Bảo Hà ),đánh tổ tôm tam cúc ,uống trà mạn Long Tỉnh ,ăn chơi đủ mùi , khi đi rong chơi có 12 cô tiên nàng theo hầu dâng ông đủ các thứ như bánh kẹo thuốc lá trà tàu ,ngựa xám ,hèo hoa ,lại có cô múa hát theo sau .Vậy nên những người đựoc ăn lộc ông như là đựoc lộc tự nhiên có lộc đánh bài thì đều dâng tạ ông một bộ bàn đèn làm bằng giấy .Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng kết thành hình chữ thọ đầu đội khăn xếp phủ vỉ lép xanh lam ,tay cầm đôi hèo hoa phi ngựa đi chấm đồng , nếu người nào được ông ném cây hèo vào người thì coi như người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu Tứ Phủ ,khi ông ngồi ngự có điệu hát dâng trà ,rồi cả điệu hát miểu tả khi thanh nhàn ông ngồi đánh tổ tôm ,tam cúc .Đền thờ ông là Đền Bảo Hà ,bên bến phà Trái Hút ,thị xã Lào Cai ,Yên bái ,quanh năm tấp nập du khách đến lễ bái không chỉ cầu được lộc cờ bạc mà còn cầu lộc làm ăn buôn bán

6,Ông Hoàng Mười Nghệ An :còn gọi là Ông Mười Củi ,vốn là thần tiên trong chốn Đào Nguyên ,giáng trần trở thành vị tướng tài dưới thời nhà Lê ,ko chỉ giỏi cầm quân ông còn là người có tài năng về văn chương thơ phú từ trong Nam Đàn Nghệ Tĩnh đều nghe nức danh Quan Hoàng Mười ,ông thường đi dạo trên lưng ngựa với bầu rượu túi thơ .Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đầu đội khăn xếp có vỉ lép vàng trên đầu ông ,các đệ tử thường lấy tờ tiền 10.000 cài vào que hương tượng trưng cho việc dâng ông lá cờ ,có khi ông ngự đồng cầm lá cờ lệnh ngũ sắc chỉ huy quan quân , cũng có khi ông cầm đôi hèo đi chấm đồng , hoặc ông cầm chiếc quật tàu làm sách , nén hương làm bút đi bách bộ đề thơ ,khi ông ngồi ngự động thì có điệu hát mời đọi chè xanh ,mời miếng cau đậu trầu vàng là các đặc sản xứ Nghệ quê ông ,lại còn có điệu hò xứ Nghệ nghe rất êm ái mượt mà ,đúng với "đất lề quê thói "Nghệ An ,những người nào muốn xuất ngoại , làm ăn buôn bán hoặc học hành thành công đều đến cửa ông để xin lộc .Đền ông là Đền Chợ Củi ,qua cầu Bến Thủy ,bên dòng sông Lam ,Nghệ An

VII.Tứ Phủ Tiên Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:

1.Cô Nhất Thượng Thiên : Cô là Tiên Nữ trên Ngọc Điện ,hầu Vua Mẫu ,thường giúp trần gian có lời kêu cầu tấu thỉnh với các Tòa các giá trong Tứ Phủ ,cũng có khi cô giáng trần làm phép hóa ra thuốc trị bách bệnh ,khi thanh nhàn Cô Nhất rong chơi khắp chốn từ Hà Nội, Bắc Ninh ,Hải Phòng cho đến Quảng Bình ,Quảng Trị ... ,từ nội thành ngoại thị ,kinh đô cô đi về ,cô bắt đồng người má phấn lưng ong.Khi ngự đồng cô mặc áo lụa đỏ thêu hoa phượng ,đội khăn đóng phủ vỉ lép đỏ ,cài hoa ,tay cầm đôi quạt ngà quạt mát cho thế gian .Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định

2.Cô Đôi Thượng Ngàn:Hiệu cô là Công Chúa Sơn Tinh,cô ngự cảnh Bồng Lai, Thiên Thai .Cô rất xinh đẹp ,về đồng đánh phấn soi gương , lược ngà chải chuốt ,khăn voan quấn đầu,da cô hây hây tựa tuyết ngà đông ,tóc già già biếc má xinh phấn hồng ,chân đi đưa nhởn đưa nhang , bước nào ra bước tiên nàng hái hoa .Cô là vị Tiên Cô hầu Vua hầu Mẫu ba tòa,cô đại tài ,tiếng tăm lừng lẫy được Vua Bà yêu thương ,đệ tử cô có vô số hằng hà , lộc Sơn Lâm Cô lấy để lấp biển Đông mà vẫn tràn đầy ,nhưng có một điều ,nếu ai đã được cô ban lộc thì đừng hững hờ muốn quên , nếu quên thì cô để cho quên rồi sau này lại bắt đền làm đôi .Lúc thanh nhàn cô rong chơi Quán Sở Tần Lầu rồi lại ngự xa giá lên chầu Thượng Đế Vua Cha ,hoặc có khi cô ngồi trên ngàn tay đàn miệng hát ca ngâm hoặc niệm Phật Quan Âm.Cô rất hay thử lòng người thế gian , cô đã từng làm chau mày quân tử xót xa anh hùng .Khi ngự đồng cô mặc áo lá xanh ,đầu vấn khăn kết thành hình hoa,có vấn vỉ lép xanh ,tay cầm mồi .Đền Cô là ngôi đền nhỏ nằm ngay gần Đền Đông Cuông ,trước cửa Đền Cô có giếng nước quanh năm trong vắt

2*.Cô Đôi Cam Đường :Cô là người tiên nữ giáng sinh ở đất Đình Bảng ,Bắc Ninh ,gia đình đời nối đời buôn bán vải tơ,cô rất xinh đẹp ,dáng thanh thanh mắt tựa sao sa , thơm thơm tóc phượng già già hây hây má phấn da ngà lưng ong ,có má lúm đồng tiền sáng trong ngọc bích , nở nụ cười làm cho liễu nguyệt hờn ghen.Cô bán vải từ đường Quan Lộ ,Chợ Dầu,Đình Bảng với đủ các loại tơ lụa ,vải sồi ,lĩnh tía ,chàm xanh ,nâu non , vải rồng ,hoa trơn .Dù đường xa lắc mà lòng cô không ngại , chỉ muốn giúp người đời có vải hộ thân làm cho niềm tin đồn đại xa gần , khiến cô đi tới đâu thì hoa cười chim hót , các bạn nàng nhẹ gót thênh thênh .Sau khi cô trở về trời để lại nhớ thương cho nhân dân .Khi ngự đồng cô mặc áo tứ thân xanh ,chít khăn mỏ quạ ,đội nón quai thao (nón ba tầm ),trên vai là chiếc đòn gánh cong với hai đầu là đôi túi đẫy dịu dàng đựng vải .Tuy cô quê ở Bắc Ninh nhưng lại hiển thánh tại thị xã Cam Đường ,Lào Cai nên nhân dân tại đó nhớ ơn đã lập đến cô là Đền Cô Đôi Cam Đường.

3.Cô Bơ Hàn Sơn :Hay còn gọi là Cô Bơ Bông .Cô vốn là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung Quảng Hàn ,rất xinh đẹp ,cổ kiêu ba ngấn , tóc mượt , mắt phượng lồng gương , da ngà điểm tuyết ,má hồng hồng thu nguyệt tô son ,thanh xuân vừa độ trăng tròn được bậc thần nữ phong cô nhan sắc vẻ khuynh thành,có hương xông gấm vóc áo quần ,lại đàn hát cũng hay nên được Đức Vương Mẫu có lòng quảng đại phong là Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa Thủy Cung ,cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng hiện thần tôn thành cô thiếu nữ đất Hàn Sơn .Câu chuyện về cô Bơ Bông như sau: Cô giáng trần ,khi Mẫu đang ngự trên long sàng , phút mộng thần chiêm bao thấy Cô Bơ dâng hạt châu trước long sàng , sau này vào ngày cô giáng sinh thì trên trời nổi áng mây xanh ,Thủy Cung nhã nhạc tập tành để cô Ba Nàng giáng sinh , thì Mẫu trông thấy cô nhan sắc giống như trong giấc điệp trước đây , sau này cô có công trong việc phù Lê dẹp Mạc , triều đình hứa sẽ phong công nhưng cô cứ đợi chờ như hoa đào còn đợi gió đông nhưng không kịp, đã đến ngày định nhật chí kì , Vua Thủy Tề đã cho xe loan đón rước cô về Thoải Cung ,thế là cô đã ko đợi được người quân tử để trao mối duyên hồng .Theo tương truyền ,cô Bơ còn là người bẻ lái con thuyền hạnh phúc ,đưa người thoát ách cơ hàn , chở người qua bến lầm than đọa đày ,non xuân sắc cũng một tay cô tô vẽ thành như nét thần tiên ,cô về làm hoa nở hây hây , cô đi làm cho ngọn cỏ cành cây thẫn thờ .Cô là người thông tri dưới bể trên trời ,bắt đồng không kể trẻ già ,ai muốn khẩn cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm .Khi cô ngự đồng mặc áo trắng pha màu tuyết , đầu đội khăn đóng ,vấn khăn ngang ba màu ,tay cầm đôi mái chèo ,chèo từ bến Cô Tô có Đền Hàn Sơn rồi vân du khắp nơi ,khi đến bản đền cô sai thị nữ bắc cầu thoi để rước cô vào ,khi chèo thuyền nơi ghềnh đá cheo leo , nơi phong ba bão táp cô khoác chiếc áo choàng trắng mỏng tung bay trong ngọn nam phong , cũng có khi cô cầm dải lụa đi đo đất đo mây .Đền thờ cô là Đền Cô Ba Bông hay đền Cô Bơ Bông ở Hà Trung ,Thanh Hóa ,ngay cửa sông ,con đường vào rất khó khăn , mở hội ngày 12/6 ÂL

4.Cô Tư Ỷ La : Có người nói cô Tư làTiên Nữ theo hầu Chầu Đệ Tứ Khâm Sai nhưng theo tài liệu cổ chính xác nhất thì cô Tư theo hầu Mẫu Thượng , cô xinh đẹp dịu dàng , được Mẫu hết mực yêu quý , khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa vàng tha thướt thêu hoa lá . Cô được thờ trên đền Ỷ La , Tuyên Quang .

5.Cô Năm Suối Lân: Cô là Tiên Nàng người dân tộc theo hầu cận Chầu Năm Suối Lân , cô ở trên Thượng Ngàn , có tính đành hanh , ai mà phạm lỗi thì cô phạt có khi là dở khóc dở cười , có khi cô cho đi lạc trong rừng , ai biết tâm thành lễ bái , cô ban tài tiếp lộc Sơn Lâm Sơn Trang , cô là người cai quản con Suối Lân , bốn mùa xanh ngắt , nhưng ai ko biết mà xuống tắm sẽ bị cô phạt cho sốt nóng mê sảng .Khi ngự đồng cô hay mặc áo xanh hoặc áo lam , đầu vấn khăn hình củ ấu và tay cầm đôi mồi lửa .Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm ,bên bờ sông Hóa

6.Cô Sáu Sơn Trang : Cô là Tiên Nàng hầu cận sát bên Mẫu Thượng Trang Châu , cũng có nơi nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung , nhưng mọi tài liệu đêù thống nhất cô Sáu là người có tài bốc thuốc cứu người , khi cô lên ngàn hái thuốc thì cầm thú reo ca , voi quỳ hổ phục bên đường cô đi , cô rất khôn ngoan nhưng cũng rất đành hanh , cô đặc biệt ghét người ăn nói quanh co , ăn không nói có .Khigiáng đồng cô mặc quả áo lam ngắn vạt dài tay , chít khăn xanh , trâm cài lược dắt , tay cầm bó mồi

7.Cô Bảy Kim Giao :Cô theo hầu Chầu Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên , Mỏ Bạch , Thái Nguyên , cũng là người dân tộc Mọi , cô hiển ứng , đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn tiên ngôi hòa ca .Khi về đồng cô mặc áo lụa tím .

8.Cô Tám Đồi Chè : Cô Tám ko phải là người theo hầu Chầu Tám Bát Nàn , mà cô có tích sử riêng, cô là người thiếu nữ hái chè đất Hà Trung , cũng một lòng giúp vua , tuy sau này chưa được đền đáp nhưng cô cũng được dân lập đền thờ là đền Phong Mục , Hà Trung , Thanh Hóa , chỉ cách đền cô Bơ Bông có một con sông.Khi ngự đồng cô mặc áo xanh quầy ( váy ) xanh ,đầu kết khăn xanh , cô múa mồi rồi múa dáng điệu hái chè

9.Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam , sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng , nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa , cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai , có khi cô máu quạt tiến Mẫu , múa cờ tiến Vua , cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa , rồi lại múa cánh tiên .Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh .Ở một số địa phương đêỳ thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng

9*.Cô Chín Tít Mù : Khác với Cô Chín Giếng ở đồng bằng , cô Chín Tít Mù ở trên Thượng Ngàn , có tài trị bệnh bằng nước suối , tuy nhiên rất ít người hầu về giá này , Đền cô lập ở trên đường lên Chầu Mười Mỏ Ba , ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng , ai kêu cầu cô về in bóng trên nước suối đầu quấn khăn tía , có người dâng cô nón đỏ có người dâng nón xanhđể xin thuốcchữa bách bệnh

10.Cô Mười Mỏ Ba:Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba , giúp vua đánh giặc Ngô ,khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc , sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười

11.Cô Bé Thượng Ngàn :Cũng như Chầu Bé , các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang , hầu Mẫu Thượng Ngàn ,có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ , các cô về mặc quần áo thổ cẩm ,chân quấn xà cạp , đeo kiềng bạc, tay cầm ô ,vai đeo gùi .Các cô bé gồm:

a,Cô Bé Thượng Ngàn ( Thị Xã Lạng Sơn )

b,Cô Bé Suối Ngang ( Hữu Lũng)

c,Cô Bé Đèo Kẻng ( Thất Khê )

d,Cô Bé Đông Cuông ( Yên Bái )

e,Cô Bé Tân An( Lào Cai )

f,Cô Bé Cây Xanh ( Bắc Giang )

g,Cô Bé Nguyệt Hồ ( Bắc Giang )

h,Cô Bé Minh Lương ( Tuyên Quang)

i,Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang)

k,Cô Bé Thác Bờ ( Hòa Bình )

12.Cô Bé Thoải Phủ : Cô Bé ngự dưới tòa Thoải Phủ , chỉ tráng bóng chứ ko mở khăn , đứng hàng 12 trong các cô

VIII.Tứ Phủ Thánh Cậu

Là các vị cậu chết trẻ , tinh nghịch ,thường phù hộ cho các gai đình buôn bán cũng như những người muốn cầu học hành .Tứ Phủ Thánh Cậu gồm :

1. Cậu Hoàng Cả

2. Cậu Hoàng Đôi

3. Cậu Hoàng Bơ

4. Cậu Bé

a, Cậu Bé Đồi Ngang ( Cậu Hoàng Quận )

b, Cậu Bé Đồi Non

Ngoài ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền , trong đó thường hay ngự đồng như : Cậu Bé Phủ Bóng , Cậu Bé Đông Cuông ....

Các cậu về thương mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá , đầu vấn khăn , hai bên tay thường có hoa cài , chân quấn xà cạp , đi giày thêu .Các cậu về thường làm lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân

Công Đồng Tứ Phủ văn

Viêt Nam thuở điện an vương thất

Chuyển pháp luân Phật nhật tăng huy

Kim niên, kim nguyệt, nhật thì.

Đệ tử dâng quy Phật thánh mười phương

Nức khói hương chiên đàn giải thoát

Thoảng mùi hoa ưu bát thơm bay

Nam Mô Phật ngự phương tây

Sen vàng chói lọi hiện ngay Di Đà

Ngự trước tòa lưu ly bảo Điện

Phật Thích Ca ứng hiện tự nhiên

Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên

Cửu Long phúc thủy quần tiên của đàn



Đức Từ thị ngại vàng rờ rỡ

Phóng hào quang rực rỡ văn yên

Quan Âm ngự trước án tiền

Tả hữu Bồ tát Tăng thiền, già na



Đức Hộ Pháp Vi Đà thiên tướng

Vận thần thông vô lượng vô biên.



Tận hư không giới thánh hiền

Dục giới sắc giới chư thiên đều mời

Vua Đế Thích Quản cai thiên Chủ

Vua Ngọc Hoàng thiên Phủ chí tôn



Dương phủ ngũ nhạc thần vương

Địa phủ thập điện diêm vương các tòa

Dưới thoải phủ giang hà ngoại hải

Chốn Động Đình bát hải long vương



Tam nguyên, tam phẩm tam quan

Chử Đồng Tử Đại thiên vương cầm quyền

Ngôi Bắc cực trung thiên tinh chúa

Tả nam tào chữa sổ trường sinh



Hữu quan bắc đẩu thiên đình

Thập nhị bát tú cửu tinh huy hoàng

Khắp tam giới bách quan văn võ

Hội công đồng tứ phủ vạn linh





Cửu trùng thánh mẫu thiên đình

Bản thiên Công chúa quế quỳnh đôi bên

Hội bàn tiên khăn điều áo thắm

Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra



Cờn Môn tứ vị vua bà

Công Đồng thánh mẫu tam tòa chúa tiên

Đền Sòng Sơn -Địa Tiên Vương Mẫu

Đất phủ Giày nổi dấu thiên hương



Thỉnh mời tiên thánh Đệ Tam

Xích Lân Long Nữ ngự đền Thủy Cung

Tướng uy hùng năm quan hoàng tử

Lĩnh sắc rồng cai ngự bốn phương



Quyền cai sơn thoải đại giang

Đông Cuông Tuần Quán thượng ngàn tối linh

Khắp tam giới đình thần tứ phủ

Hội Công Đồng văn võ bá quan



Tả mời Thái Tuế Dương Niên

Hữu Quan Dương Cảnh Thành Hoàng quản coi

Tiền hậu lai Lê Triều Thái Tổ

Quản chư thần thừa trị hôm mai



Thỉnh mời Tứ Phủ Khâm Sai

Thủ Đền Công Chúa đáng tài thần thông

Thỉnh tam thập lục cung tiên thần nữ

Lệ tùy hầu thừa sự sớm trưa



Pháp vân Pháp vũ uy nghi

Pháp lôi Pháp điện hộ trì bốn phương

Tướng thiên cung mũ đồng áo sắt

Lốt thủy tề năm sắc phi phương



Thỉnh mời bát lộ sơn trang

Bên thời thập nhị tiên nương chầu vào

Các bá quan cơ nào đội ấy

giáng bản đền lừng lẫy uy nghi



Thổ Công Thổ Địa thần kỳ

Ngoại Giang hà Bá sơn kỳ thần linh

Sắc cẩn thỉnh thiên binh lưc sĩ

Ngũ Hổ thần vạn vị hùng binh



Thỉnh mời liệt vị bách linh

Binh tùy binh bộ cùng binh bản đền

Phép tự nhiên thiên trù tống thực

Thập biến thiên vạn ức hà sa



Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế. (*)

Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng



án tông tông tông tông tông thủy luân nhũ hải

Biển trần trần sái sái giai trung

Nhất nghị lục cúng viên thông

Ân cần phụng hiến công đồng như lai



Nguyệt vân lai cầu an bảo tọa

Đại từ bi hỷ xả chi tâm

Cứ trong một tháng đôi tuần

Dâng hoa cúng quả trầu trăm tuổi già





Hội tam đa , trình tương ngũ phúc

Độ cho đồng hưởng lộc trường sinh

Thỉnh mời Phật giáng lưu ân

Thần giáng lưu phúc thiên xuân thọ trường

bổ sung về quan tam phủ,và các thánh thờ tại Đền Lảnh Giang&Xích Đằng HY:

Theo thần phả tại Lảnh Giang Linh từ:

Ngày xưa(vào thời vua hùng thứ 18), ở trang An Cố huyện Thuỵ Anh - phủ Thái Ninh - trấn Sơn Nam, có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà đã cao tuổi mà vẫn chưa sinh được mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh, gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi, bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô gái về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, đang lúc ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn ba vòng quanh mình nàng, khiến nàng kinh hoàng mà ngất lịm, lúc sau thuồng luồng bỏ đi. Từ hôm đó, nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời dèm pha, khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Thời gian thấm thoát thoi đưa, ngày mùng 10 tháng giêng năm Tân Tỵ, nàng chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng đem cái bọc quẳng xuống dòng sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong, ông Minh rạch ra bỗng thấy ba con rắn từ trong chiếc bọc trườn xuống dòng sông. Con thứ nhất theo hướng cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám (nơi nàng Quý đang sống). Nhân dân các trang ấp ở đay thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều nghe thấy dưới dòng sông có người ngâm vịnh:

"Sinh là tướng, hoá là thần,

Tiếng thơm còn ở lòng dân muôn đời.

Khi nào giặc dã khắp nơi,

Bọn ta mới trở thành người thế gian."

Bấy giờ Thục Phán thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thủy bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy, nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thủy thần sinhở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉng dậy, Duệ Vương liền sai sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang ĐÀo Động, bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng, hình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó ông Vĩnh gọi hai em đến bái biệt thân mẫu rồi cùng nhau đến yết kiến vua Duệ Vương. Vua Hùng Liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, Ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại dưới sự chỉ huy của ông, năm đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn, nhà vua phong ông là Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần, nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua đồng ý, ông Vĩnh cùng hai em về quê bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không còn nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần, đồng thời đặt lệ, ban sắc chỉ cùng tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu phụng thờ.

Các triều đại sau đó đều có sắc phong cho ông, tất cả 12 sắc. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913).

Cùng trên mảnh đất thiêng này có câu chuyện về mối tình Tiên Dung, Chử Đồng Tử từ ngàn xưa còn vọng đến hôm nay. Thủa ấy, ở thôn Đằng Châu có một nhà nghèo gặp cơn hỏa hoạn. Hai cha con chỉ còn một manh khố ngắn dùng chung để khi có việc ra ngoài. Lúc người cha qua đời, Chử Đồng Tử đã dành chiếc khố cuối cùng khâm liệm cha. Từ đó ngày ngày chàng thường phải ngâm mình dưới nước.

Một hôm, Tiên Dung con gái vua Hùng đi du ngoạn, cảm nhận cảnh sông nước nên thơ, công chúa cho dừng thuyền lại bên bãi cát. Chử Đồng Tử đang mò cá dưới sông, nhìn thấy thuyền rồng, cờ rong lọng tía mà kinh sợ, vội vàng vùi mình dưới cát. Ngay lúc đó Tiên Dung sai các thị nữ quây màn để tắm đúng vào nơi mà Chử Đồng Tử ẩn nấp. Nước xối từ trên người nàng, trôi dần cát ở dưới chân, lộ Chử Đồng Tử trong màn quây. Sau giây phút ngỡ ngàng, cả hai người cho là duyên trời đã định, cùng nhau về triều xin phép vua cha cho kết duyên thành vợ chồng. Chử Đồng Tử, Tiên Dung đã về trời nhưng tình yêu, lòng hiếu thảo còn ở lại mãi với trần gian.

Trần Danh Lâm (1705-1777) khi về thăm Lảnh Giang đã có bài thơ:

"Con gái vua Hùng, tướng vua Hùng,

Đền này truyền việc lại nhà thờ chung.

Sự nghiệp nhân duyên thì rất đẹp,

Tình đời chẳng đẹp đáng thau không


 

MÙNG 1 SỚM MAI MÙNG 2 ĐẦU THÁNG 9 VĂN KHẤN GIA TIÊN MÙNG 1 VĂN KHẤN TỨ PHỦ

MÙNG 1 SỚM MAI MÙNG 2  ĐẦU THÁNG 9 VĂN KHẤN GIA TIÊN MÙNG 1 VĂN KHẤN  TỨ PHỦ  CÁC  NGÀY TIỆC THÁNG 9 + Ngày 02/9: Tiệc CÔ BÉ SUỐI NGANG (Phố...