Đến với cuộc đời thực
(Có nhiều người thắc mắc ad sưu tầm bài viết này để các bạn đón đọc)
Mẫu
có nghĩa là mẹ. Thờ Mẫu nghĩa là thờ mẹ. Đây là điểm rất đáng chú ý,
bởi con người Việt Nam từ rất sớm đã lựa chọn hình tượng mẹ để tôn vinh,
thờ phụng và ký thác niềm tin.
Ban
đầu, người Việt Nam coi tự nhiên như người mẹ và tôn thờ, trải qua thời
gian với xu hướng “lịch sử hóa”, “địa phương hóa” và “nhân hóa”, nhân
vật Mẫu đã được gắn với nhiều huyền tích có công với nước thương yêu
người dân thậm chí gắn với những nhân vật có thật.
Vì
thế xuất hiện việc thờ Mẫu thần là các Vương Mẫu Quốc Mẫu Thánh Mẫu như
Ỷ Lan Mẹ Gióng Thiên Ya Na, Linh sơn Thánh Mẫu - Bà Đen, Bà Chúa Xứ…
Tiếp
đó với sự ảnh hưởng của đạo giáo Trung Hoa, tín ngưỡng thờ Mẫu xuất
hiện thờ Tam phủ Tứ phủ (Mẫu Thiên cai quản vùng trời, Mẫu Địa cai quản
vùng đất, Mẫu Thoải cai quản vùng sông biển, Mẫu Thượng Ngàn cai quản
vùng núi) vì thế hình ảnh Mẫu còn có ý nghĩa chở che mang lại những điều
tốt lành.
Trong
văn hóa Việt, kết tinh đẹp nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu là hình ảnh Liễu
Hạnh vừa uy nghiêm vừa nhân từ trong tư cách là tiên là người là thánh.
PGS.
TS Ngô Đức Thịnh, người đã có công lớn trong nghiên cứu đạo Mẫu Việt
Nam đã cho rằng: “Đạo Mẫu chính là một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được
tâm linh hóa tôn thờ đạo Mẫu tức là tôn thờ các anh hùng dân tộc, những
người có công với dân, với nước”.
Điều
đặc biệt ở đạo Mẫu là hướng về trần thế, thực tại, chứ không phải kiếp
sau, phần linh hồn của con người. Đến với đạo Mẫu là đến với thực tại để
cầu mong phúc - lộc - thọ.Đến với đạo Mẫu con người còn tìm đến hình
thức diễn xướng độc đáo, tiêu biểu là nghi lễ lên đồng.
Nghi
lễ này nguyên hợp nhiều hình thức nghệ thuật, trong đó, nổi bật là lối
hát văn độc đáo. Lối hát này làm cho nghi lễ lên đồng sôi động và hấp
dẫn nhờ tiếng đàn, trống nhạc đệm cùng với lời văn gợi lại sự tích, công
trạng của các vị thánh và cách trang trí nhân vật, khung cảnh tác động
trực tiếp đến người xem, chuyển tải những giá trị văn hóa cổ truyền rất
độc đáo của người Việt.
Mẫu Liễu Hạnh là tiên, là người hay là thánh?
Căn
cứ vào “Quảng Cung linh từ phả ký”, “Quảng Cung linh từ bi ký” và “Cát
Thiên tam thế thực lục” hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý di
tích, danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm thân thế và sự tích bà Phạm
Tiên Nga (Thánh Mẫu Liễu Hạnh) như sau:
Vào
đầu thời Lê tại ấp Quảng Nạp xã Vị Nhuế huyện Đại An phủ Nghĩa Hưng
trấn Sơn Nam có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà
Đoàn Thị Hằng người ấp Nhuế Duệ cũng xã Vị Nhuế (nay là thôn Vi Nhuế, xã
Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định).
Hai
ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã
ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo
mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu
thai làm con. Từ đó bà có thai.
Trước
khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như
có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng
tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì
vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm
Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành
thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng
đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi
quán xuyến công việc gia đình.
Ngày
10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462) thân phụ của nàng qua đời. Hai năm sau
mẫu thân của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng
cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng ( nay là thôn La Ngạn. Ở đây có
đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga). Sau ba năm để tang cha
mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc
thiện (Lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).
Bà
đã ủng hộ tiền của và công sức giúp đân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên
kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường
đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là
con đường nối di tích Phủ Dày với Phủ Quảng Cung.
Cùng
với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới
tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh
cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên
họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Năm
36 tuổi, Bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt
tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên
dưới thờ thân phụ và thân mẫu.
Sau
đó hai năm, Bà tới tu sửa chùa Sơn Trường -ý Yên, Nam Định, chùa Long
Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá - Bình Lục, Hà Nam.
Tại
chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dậy dân trồng
dâu, nuôi tằm , dệt vải. Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), Bà trở lại
chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ cùng các anh chị con
ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế ( nay còn đền thờ ở
phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Bà lại đi chu du ở trong hạt,
khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
Rồi
trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn
giông, gió cuốn, mây bay, Bà đã hóa thần về trời. Năm đó Bà vừa tròn 40
tuổi. Ngay sau khi Bà mất nhân dân xã Vi Nhuế đã lập đền thờ trên nền
nhà cũ, gọi là Phủ Quảng Cung, tôn Bà làm Phúc thần, với Duệ hiệu là “Lê
Triều Hiển Thánh, Tầm Thanh Cứu khổ, Tiên Nga tôn thần” ,
Sự
tích giáng sinh lần thứ hai truyền thuyết kể rằng: Vì thương nhớ cha mẹ
và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557),
Phạm Tiên Nga lại giáng sinh lần thứ 2 tại thôn Vân Cát xã An Thái,
huyện Thiên Bản (nay là Kim Thái, Vụ Bản , Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế
chừng 7 km.
Lần
này, Bà kết duyên với ông Trần Đào, sinh được một người con trai, tên
là Nhân, một con gái tên là Hòa. Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu,
thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 20 tuổi. Lăng mộ và đền
thờ ở Phủ Dày, thôn Thiên Hương - Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản ,
Nam Định.
Có những vị thần là người dân tộc thiểu số
Theo
GS Ngô Đức Thịnh, “trong số khoảng 50 vị thần mà đạo Mẫu tôn thờ, hầu
hết là những nhân vật lịch sử, có công với dân tộc”. Nhiều người anh
hùng dân tộc được nhân dân thờ trong các phủ như Đức thánh Trần Hưng Đạo
Đại Vương, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng.
Nhiều
vị cũng được huyền thoại hóa như ông Hoàng Mười ở Nghệ An. Giáo sư cũng
phát hiện ra việc hát văn hầu đồng là một văn hóa độc đáo kết nối giữa
người miền xuôi với người miền ngược, trong các vị thần được thờ trong
đạo Mẫu có hàng chục vị thần là người các dân tộc thiểu số.
Trong
các tôn giáo tồn tại ở Việt Nam thì đa số có nguồn gốc ngoại lai như
đạo Nho, đạo Phật hay đạo Lão, riêng đạo Mẫu, theo giáo sư Thịnh: “Đạo
Mẫu hoàn toàn là một tôn giáo bản địa, vì trong đạo Mẫu không có vị thần
nào có nguồn gốc từ nước ngoài mà toàn bộ các vị thần đều là người Việt
Nam và cai quản đất nước Việt Nam”.
Một
tôn giáo với hệ thống các vị thần từ thấp đến cao đều là người bản địa,
thần linh bản địa được phổ biến khắp nơi và tồn tại lâu đời là một nét
văn hóa rất hiếm với bất kỳ quốc gia nào.
Thờ
Mẫu là đạo lý thể hiện những nét đẹp văn hóa truyền thống, là dòng chảy
tiếp biến hướng về cội nguồn. Trong xu thế mới, nhân dân vẫn chăm lo
hương khói cho Mẫu và vẫn tiếp tục gửi gắm niềm tin về sự phò trợ phúc -
lộc - thọ để hướng tới cuộc sống trần thế an vui, đề huề.
Tuy
vậy một số nơi đã xuất hiện nhiều hiện tượng lệch lạc, nhất là cảnh
chen lấn cầu phước, đốt nhiều vàng mã, thiếu quy định cụ thể trong quản
lý ảnh hưởng xấu đến nét đẹp văn hóa bản địa mang đặc điểm phong vị
làng xã xưa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét